Cơ Sở Lý Luận Phát Triển Dịch Vụ Thanh Toán Quốc Tế Của Ngân Hàng Thương Mại, bài viết dưới đây mình đã soạn cho các bạn sinh viên cơ sở lý thuyết về dịch vụ thanh toán quốc tế, hy vọng tài liệu giúp bạn một phần nào trong bài báo cáo, khóa luận, luận văn của mình. Bạn đang gặp khó khăn trong việc lựa chọn đề tài và nội dung trong bài tốt nghiệp của mình đã có team mình ở đây nhận làm chuyên đề tốt nghiệp giá rẻ trọn gói, viết tất cả các chuyên ngành hot, bao chỉnh sửa, bám sát theo đề cương nhà trường, hãy liên hệ ngay Zalo/tele: 0909 23 26 20 để được nhân viên tư vấn và báo giá chi tiết, xin dấu công ty, bao mật cao.
1. Khái Niệm – Cơ Sở Lý Thuyết Phát Triển Dịch Vụ Thanh Toán Quốc Tế Của Ngân Hàng Thương Mại
TTQT ra đời từ lâu nhưng mới chỉ phát triển mạnh mẽ vào cuối thế kỷ XX khi mà khối lượng mua bán, đầu tư quốc tế và chuyển tiền quốc tế ngày càng nhiều, dẫn đến khối lượng các giao dịch thanh toán thông qua NH cũng tăng lên. Thanh toán qua NH còn làm gia tăng việc sử dụng đồng tiền các nước để chi trả lẫn nhau. TTQT đã trở thành một bộ phận không thể thiếu trong hoạt động của nền kinh tế tại nhiều quốc gia hiện nay. TTQT có thể được định nghĩa theo nhiều quan điểm khác nhau, như:
Trong nghiên cứu của mình, tác giả Vũ Thị Thúy Nga (2003) cho rằng, “TTQT là việc thực hiện các nghĩa vụ chi trả về tiền tệ phát sinh trên cơ sở các hoạt động kinh tế và phi kinh tế giữa các tổ chức, cá nhân nước này với tổ chức cá nhân nước khác, hay giữa một quốc gia với một tổ chức quốc tế, thông qua quan hệ giữa các ngân hàng của các nước có liên quan”.
Tác giả Lê Thị Phương Liên (2008) nhận định rằng: “Thanh toán quốc tế là việc thực hiện nghiệp vụ chi trả về tiền tệ phát sinh từ các quan hệ kinh tế, thương mại tài chính, tín dụng và dịch vụ phi mậu dịch giữa các tổ chức kinh tế, giữa các công ty, các cá nhân của các nước với các đối tác của mình trên thế giới để kết thúc một chu trình hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại bằng hình thức chuyển tiền hay bù trừ trên tài khoản tại các ngân hàng của các nước có liên quan”. – Cơ Sở Lý Thuyết Phát Triển Dịch Vụ Thanh Toán Quốc Tế Của Ngân Hàng Thương Mại
Về cơ bản, tác giả thấy TTQT phát sinh trên cơ sở hoạt động thương mại quốc tế và là khâu cuối cùng trong chuỗi hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa giữa các tổ chức, DN, cá nhân thuộc các quốc gia khác nhau. Do vậy, TTQT là hoạt động ngoại thương thông qua hệ thống NHTM với mục đích chính là phục vụ, hỗ trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế ở các nước với nhau được hiệu quả.
Trong mối quan hệ đối ngoại tại mỗi quốc gia, quan hệ kinh tế ngoại thương chiếm vị trí chủ đạo, là cơ sở để các quan hệ kinh tế khác tồn tại và phát triển. Khi thực hiện các hoạt động quốc tế phát sinh các nhu cầu chi trả, thanh toán giữa các chủ thể ở các nước khác nhau từ đó hình thành, phát triển dịch vụ TTQT và các NHTM chính là cầu nối trung gian giữa các bên kinh tế. Hiện nay, dịch vụ TTQT phổ biến gồm: thư tín dụng, nhờ thu, chuyển tiền đi/đến đối với các nhà xuất nhập khẩu (XNK). Các dịch vụ TTQT khác như chuyển vốn đầu tư trực tiếp/gián tiếp từ nước ngoài vào Việt Nam và ngược lại; chuyển tiền trả lãi, nợ vay nước ngoài; chuyển tiền cho vay, thu hồi nợ nước ngoài…
Ngoài ra, các NHTM còn cung cấp các sản phẩm tài trợ thương mại trước giao hàng như Tài trợ hàng lưu kho, Thư tín dụng điều khoản đỏ; Tài trợ sau giao hàng như chiết khấu bộ chứng từ theo L/C, ứng trước bộ chứng từ nhờ thu, bao thanh toán và các sản phẩm tài trợ chuyên biệt khác tùy thuộc vào ngành nghề, chu trình KD và đặc điểm riêng của từng DN. Có thể coi dịch vụ TTQT là một trong những chức năng của NHTM, nó thực hiện các nghĩa vụ tiền tệ, phát sinh trên cơ sở các hoạt động kinh tế và phi kinh tế giữa các tổ chức hay cá nhân các nước với nhau thông qua quan hệ giữa các NH của các nước liên quan. Đây là dịch vụ đòi hỏi nhiều về trình độ chuyên môn, công nghệ và mạng lưới các ngân hàng đại lý (NHĐL) tại nhiều quốc gia trên thế giới.
Một cách tổng quát, dịch vụ TTQT là dịch vụ trong các hoạt động thanh toán quốc tế của mỗi ngân hàng và thông qua các hoạt động này ngân hàng sẽ thu về một khoản phí dịch vụ liên quan đến việc gửi, nhận thông báo; kiểm tra và xử lý bộ chứng từ XNK; chuyển trả tiền; thu hộ tiền; bảo lãnh nhận; trả hàng… nhằm phục vụ các doanh nghiệp, cá nhân có hoạt động trong lĩnh vực XNK với các phương thức TTQT khác nhau hay tài trợ vốn cho doanh nghiệp XNK.
Về cơ bản, tác giả thấy TTQTiphát sinh trên cơ sở hoạt động thương mại quốc tế và là khâuicuối cùng trong chuỗi hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa giữa các tổ chức, DN, cá nhân thuộc các quốc gia khác nhau. Do vậy, TTQT là hoạt động ngoại thương thông qua hệ thống NHTM với mục đích chính là phục vụ, hỗ trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế ở các nước vớinhau được hiệu quả.
1.2 Đặc điểm thanh toán quốc tế
Dịch vụ TTQT là một loại dịch vụ mà NH cung ứng cho KH, ngoài các đặc điểm truyền thống như các dịch vụ khác thì dịch vụ TTQT còn có những đặc điểm riêng biệt không giống như dịch vụ thanh toán trong nước. Những đặc điểm này chi phối lớn đến chất lượng và hiệu quả kinh tế của dịch vụ TTQT như sau:
Thứ nhất, chịu sự điều chỉnh của luật pháp và các tập quán quốc tế: dịch vụ TTQT liên quan đến các chủ thể ở hai hay nhiều quốc gia do đó các chủ thể khi tham gia vào hoạt động TTQT không những chịu sự điều chỉnh của luật quốc gia mà còn phải tuân thủ các văn bản pháp lý quốc tế ban hành UCP, URC, Incoterms… tạo ra một khung pháp lý bình đẳng, công bằng cho các chủ thể khi tham gia và tránh được những hiểu lầm đáng tiếc xảy ra;
Thứ hai, cung ứng dịch vụ qua biên giới quốc gia: chỉ có dịch vụ chuyển qua biên giới còn người cung ứng dịch vụ thì không dịch chuyển;
Thứ ba, hình thành đại lý dịch vụ ở nước người tiêu dùng: dịch vụ TTQT là một loại hàng hóa vô hình cho nên sự hiện diện của cung ứng dịch vụ ở nước người tiêu dùng dịch vụ là rất quan trọng. Các ngân hàng thiết lập quan hệ NHĐL với các Ngân hàng sở tại hoặc cao hơn nữa là thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện ở nước tiêu thụ dịch vụ để thực hiện TTQT được hiệu quả;
Thứ tư, trong TTQT tiền mặt hầu như không được sử dụng trực tiếp mà thay vào đó là sử dụng các phương tiện TTQT như séc thanh toán, hối phiếu và kỳ phiếu;
Thứ năm, dịch vụ TTQT sẽ chịu sự ảnh hưởng trực tiếp của tỷ giá hối đoái và quản lý dự trữ ngoại hối của quốc gia;
Thứ sáu, ngôn ngữ sử dụng trong TTQT được thống nhất chủ yếu là ngôn ngữ tiếng Anh;
Thứ bảy, giải quyết các tranh chấp chủ yếu bằng luật quốc tế, hoặc luật quốc gia của nước thứ ba, hoặc luật của nước người xuất khẩu hay nhập khẩu do các bên thỏa thuận thông qua con đường trọng tài hay tòa án (Nguyễn Thị Cẩm Thuỷ, 2012).
Download Free !!! Tải Free!!!
==> TUYỂN TẬP Chuyên đề báo cáo tại ngân hàng HAY NHẤT!!!
==> LIST 111+ Chuyên Đề Thực Tập Về Ngân Hàng Sacombank
1.3 Vai trò của thanh toán quốc tế
1.3.1 Đối với nền kinh tế
Thông qua dịch vụ TTQT các luồng hàng hóa, dịch vụ được dịch chuyển từ quốc gia này đến quốc gia khác, bao gồm cả sự dịch chuyển của luồng tiền giữa các quốc gia. TTQT còn đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn, đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước. TTQT được coi là khâu quan trọng trong quá trình mua bán hàng hóa, dịch vụ giữa các tổ chức, cá nhân thuộc các quốc gia khác nhau. Nếu không có dịch vụ TTQT thì hoạt động kinh tế đối ngoại khó tồn tại và phát triển. Nếu các dịch vụ TTQT được thực hiên nhanh chóng, an toàn, chính xác sẽ góp phần giải quyết đươc mối quan hệ lưu thông hàng hóa, tiền tệ giữa người mua và người bán một cách thông suốt và hiệu quả. Do vậy, dịch vụ TTQT đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế ở mỗi quốc gia và được thể hiện chủ yếu ở những nội dung sau:
Thứ nhất, TTQT đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn: Giúp bôi trơn và thúc đẩy hoạt động XNK hàng hóa và dịch vụ, hoạt động đầu tư nước ngoài trực tiếp hoặc gián tiếp, thu hút kiều hối và các nguồn lực tài chính, các quan hệ tài chính quốc tế khác của nền kinh tế như một tổng thể.
Thứ hai, TTQT là cầu nối gắn kết nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới, thực hiện chính sách kinh tế mở cửa. Các hoạt động ngoại thương ngày càng phát triển, nhu cầu trao đổi hàng hóa dịch vụ ngày càng đa dạng và phức tạp, sự phụ thuộc giữa các nước ngày càng nhiều. Thông qua TTQT, nền kinh tế trong nước sẽ học hỏi được nhiều điều mới từ đó giúp cho nền kinh tế trong nước phát triển, góp phần thúc đẩy tiến trình hội nhập ngày càng sâu và rộng.
Thứ ba, TTQT là cơ sở để thúc đẩy các mối quan hệ kinh tế đối ngoại, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Dịch vụ TTQT giúp các quốc gia thể hiện lợi thế của mình, tạo điều kiện xây dựng các ngành kinh tế mũi nhọn, nâng cao năng suất lao động và hạ giá thành sản phẩm, thúc đẩy các nhân tố phát triển theo chiều sâu, trao đổi công nghệ mới, thu hút vốn đầu tư, nâng cao tốc độ tăng trưởng và hiệu quả của nền kinh tế.
Thứ tư, TTQT là điều kiện để thúc đẩy hàng hóa phát triển, giúp cho quá trình tái sản xuất được tiến hành bình thường, lưu thông hàng hóa được thông suốt. Dịch vụ TTQT không phát triển thì sản xuất và lưu thông hàng hóa không thể phát triển được. TTQT có vai trò quan trọng việc mở rộng khả năng tiêu dùng, nâng cao mức hưởng thụ của các cá nhân, doanh nghiệp góp phần thúc đẩy sản xuất và mở rộng phân công lao động xã hội, thực hiện cách mạng khoa học công nghệ trong các ngành của nền kinh tế quốc dân. Do vậy, có thể nói TTQT đã có từ lâu đời, nó tồn tại như một yếu tố khách quan và sự phát triển của nó luôn gắn liền với sự phát triển của xã hội loài người.
1.3.2 Đối với Nhà kinh doanh xuất nhập khẩu
TTQT có vai trò khuyến khích các DN kinh doanh XNK gia tăng quy mô hoạt động, gia tăng lượng hàng hoá giao dịch và mở rộng quan hệ giao dịch với các nước. TTQT phục vụ nhu cầu thanh toán cho hàng hóa và dịch vụ XNK của các DN. Do vậy, điều quan trọng khi ký kết hợp đồng mua bán hay lựa chọn phương thức thanh toán là trả lời các câu hỏi: Làm thế nào để nhà xuất khẩu kiểm soát được hàng hóa cho đến khi thanh toán? Làm thế nào để nhà nhập khẩu kiểm soát được tiền cho đến khi nhận được hàng hóa?
Giải pháp đối với NXK là kiểm soát hàng hóa thông qua việc kiểm soát chứng từ vận tải bằng việc sử dụng các phương thức thanh toán của các NHTM. Còn đối với NNK là họ sẽ kiểm soát tiền thông qua việc định đoạt chứng từ vận tải bằng việc sử dụng các phương thức thanh toán của các NHTM. Như vậy có thể thấy, NNK và NXK đều kiểm soát hàng hóa, tiền thông qua chứng từ vận tải bằng dịch vụ của NH. Do vậy, TTQT trong hoạt động ngoại thương là không thể thiếu, nó là cầu nối giữa NNK và NXK với trung gian là các NHTM.
TTTQ là khâu cuối cùng trong quá tŕnh lưu thông hàng hoá quốc tế. Nếu dịch vụ TTQT được thực hiện nhanh chóng và liên tục có tác dụng thúc đẩy tốc độ thanh toán và giúp các DN thu hồi vốn nhanh. Thông qua dịch vụ TTQT để tạo nên các mối quan hệ tin cậy giữa DN và NH, có thể tạo điều kiện thuận lợi để các DN được nhận tài trợ vốn từ NH trong trường hợp DN thiếu vốn, được hỗ trợ về mặt kỹ thuật thanh toán thông qua việc hướng dẫn, tư vấn cho DN và hạn chế rủi ro có thể xảy ra trong quá trình thanh toán với các đối tác. – Cơ Sở Lý Luận Phát Triển Dịch Vụ Thanh Toán Quốc Tế Của Ngân Hàng Thương Mại
1.4 Các công cụ thanh toán quốc tế
- Thanh toán mậu dịch
Thanh toán mậu dịch là quan hệ thanh toán phát sinh trên cơ sở trao đổi hàng hóa XNK và các dịch vụ thương mại cung ứng cho nước ngoài theo giá cả thị trường quốc tế. Thông thường, trong nghiệp vụ thanh toán mậu dịch phải có chứng từ hàng hóa kèm theo. Cơ sở để các bên tiến hành mua bán và thanh toán cho nhau là hợp đồng ngoại thương, các bên mua bán bị ràng buộc bởi hợp đồng thương mại hoặc một hình thức cam kết khác như thư, điện giao dịch… Mỗi hợp đồng chỉ ra một mối quan hệ nhất định, nội dung của hợp đồng phải quy định điều kiện thanh toán cụ thể (Trần Hoàng Ngân, 2016).
Ngoài ra, trong TTQT còn có thanh toán vay nợ viện trợ. Loại thanh toán này thực chất cũng là thanh toán mậu dịch nhưng chỉ khác nhau ở nguồn vốn. Thanh toán mậu dịch được thực hiện bằng nguồn vốn tự có còn thanh toán vay nợ viện trợ do nước ngoài cấp vốn.
- Thanh toán phi mậu dịch
Thanh toán mậu dịch là việc thực hiện quan hệ thanh toán phát sinh không liên quan đến hàng hóa xuất nhâp khẩu cũng như cung ứng lao vụ cho nước ngoài nghĩa là thanh toán cho các hoạt động không mang tính chất thương mại mà nó chỉ góp phần thực hiện các mối quan hệ phi mậu dịch giữa các nước với nhau. Đó là những chi phí của các cơ quan ngoại giao, ngoại thương ở nước sở tại, các chi phí về vận chuyển và đi lại của các đoàn khách Nhà nước, các tổ chức, cá nhân.
- Thanh toán biên mậu
Thanh toán biên mậu là việc thực hiện thanh toán mua bán, trao đổi hàng hóa và dịch vụ qua biên giới giữa thương nhân của DN và cư dân khu vực biên giới trên đất liền giữa hai nước lân cận và được thực hiện theo quy định tại các Hiệp định về mua hàng hóa ở vùng biên giới giữa Chính phủ nước Việt Nam và chính phủ các nước có chung đường biên giới (Ngân hàng Nhà nước Việt nam, 2004)
Do đặc thù của hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa dịch vụ qua biên giới nên thanh toán biên mậu có thể hiểu theo nhiều khái niệm khác nhau, theo đối tượng và phạm vi hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa dịch vụ như buôn bán/xuất khẩu chính ngạch, buôn bán/xuất khẩu tiểu ngạch… Hoạt động mua bán hàng hóa ở vùng biên giới là hoạt động mua bán của các DN được XNK hàng hóa ở vùng biên theo quy định của mỗi bên và của cư dân biên giới thông qua các cửa khẩu trên bộ và thông qua chợ biên giới. Đồng tiền thanh toán được sử dụng thông qua hình thức thanh toán này thường là ngoại tệ tự do chuyển đổi hoặc đồng tiền của nước có chung biên giới. Có thể thấy rằng, buôn bán qua biên giới là hình thức thương mại quốc tế đặc biệt, hiện nay không còn phân biệt ở hình thức ngoại thương mà phân biệt ở hình thức thanh toán (thanh toán theo thông lệ quốc tế bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi hay theo quy ước riêng của hai nước có chung biên giới). – Cơ Sở Lý Luận Phát Triển Dịch Vụ Thanh Toán Quốc Tế Của Ngân Hàng Thương Mại
Do đó, thanh toán biên mậu là thanh toán các nghĩa vụ tiền tệ phát sinh từ các mối quan hệ kinh tế thương mại và mối quan hệ khác giữa các chủ thể của hai nước ở khu vực biên giới theo các quy định của Chính phủ hai nước có chung biên giới.
1.5 Các phương thức thanh toán quốc tế
1.5.1 Phương thức chuyển tiền – Remittance Remise
Chuyển tiền là phương thức thanh toán trong đó KH (người chuyển tiền) yêu cầu NH phục vụ mình chuyển một số tiền nhất định cho một người khác (người thụ hưởng) ở một địa điểm nhất định bằng phương tiện chuyển tiền do KH yêu cầu. Chuyển tiền là phương thức thanh toán đơn giản, trong đó người chuyển tiền và người nhận tiền tiến hành thanh toán với nhau. Khi thực hiện chuyển tiền, NH đóng vai trò trung gian thanh toán theo ủy nhiệm để hưởng phí, không bị ràng buộc trách nhiệm gì đối với người chuyển tiền và người thụ hưởng.
Phương thức chuyển tiền có thể thực hiện bằng hai cách:
(1) Chuyển tiền bằng điện (Telegraphic Transfer T/T): NH thực hiện việc chuyển tiền bằng cách làm điện ra lệnh cho NHĐL ở nước ngoài trả tiền cho người nhận.
(2) Chuyển tiền bằng thư (Mail Transfer M/T): NH thực hiện việc chuyển tiền bằng cách gửi thư ra lệnh cho NHĐL ở nước ngoài trả tiền cho người nhận.
Trong đó, hình thức chuyển tiền bằng điện có lợi cho người xuất khẩu vì nhận tiền nhanh nhưng không có lợi cho người nhập khẩu vì chi phí cao.
Các bên tham gia trong phương thức chuyển tiền bao gồm:
– Người chuyển tiền hay người trả tiền (Customer or Remitter): Thường là người nhập khẩu, người mua, người mắc nợ, nhà đầu tư, người chuyển kiều hối… Người trả tiền là người yêu cầu ngân hàng chuyển tiền ra nước ngoài.
– Người hưởng lợi (Beneficiary): Là người xuất khẩu, chủ nợ, người nhận vốn đầu tư, người nhận kiều hối… do người chuyển tiền chỉ định.
– NH chuyển tiền (Remitting Bank): Là NH phục vụ người chuyển tiền, ở nước người yêu cầu chuyển tiền.
– NH trả tiền (Paying Bank): Là NH trực tiếp trả tiền cho người thụ hưởng, là NHĐL hay chi nhánh của NH chuyển tiền ở nước người thụ hưởng.
Quy trình nghiệp vụ được thể hiện trong sơ đồ 1.1 và 1.2:
Khi NH chuyển tiền và ngân hàng trả tiền có quan hệ tài khoản trực tiếp:
Hình 1.1. Thanh toán theo phương thức chuyển tiền trong trường ngân hàng chuyển tiền và ngân hàng trả tiền có quan hệ tài khoản trực tiếp
Nguồn: Trần Văn Hoè, 2011
Hình 1.2. Thanh toán theo phương thức chuyển tiền trong trường ngân hàng chuyển tiền và ngân hàng trả không có quan hệ tài khoản
Nguồn: Trần Văn Hoè, 2011
Trong mối quan hệ mua bán, phương thức TTQT này thường được chọn làm phương tiện thanh toán đối với nhà XNK, nhà cung ứng dịch vụ có quan hệ thân thiết, tin cậy lẫn nhau vì khâu thanh toán này dễ làm nảy sinh việc chiếm dụng vốn của người bán nếu bên mua cố tình kéo dài việc thanh toán. Việc trả tiền phụ thuộc vào thiện chí của người mua, dùng phương thức này quyền lợi của người bán không được đảm bảo. Do vậy, phương thức này ít được sử dụng trong thanh toán thương mại quốc tế, nó chỉ được dùng trong thanh toán phi mậu dịch cũng như các dịch vụ có liên quan đến XNK hàng hóa: cước vận tải, bảo hiểm, bồi thường…
1.5.2 Phương thức nhờ thu – Collection of payment
Nhờ thu là một phương thức thanh toán theo đó bên bán (nhà xuất khẩu) sau khi giao hàng hay cung ứng dịch vụ, ủy thác cho ngân hàng phục vụ mình xuất trình bộ chứng từ thông qua ngân hàng đại lý cho bên mua (nhà nhập khẩu) để được thanh toán, chấp nhận hối phiếu hay chấp nhận các điều kiện và điều khoản khác. Các bên tham gia bao gồm:
+ Người ủy thác thu (Principal): Là người yêu cầu ngân hàng phục vụ mình (ngân hàng thu hộ) thu hộ tiền.
+ Ngân hàng nhờ thu (Remitting Bank): Là NH theo yêu cầu của người ủy thác, chấp nhận chuyển nhờ thu đến NHĐL (ngân hàng thu hộ) ở gần và thuận tiện với người trả tiền.
+ Ngân hàng thu hộ (Collecting Bank): Đây là NHĐL hay chi nhánh của NH nhờ thu có trụ sở ở nước người trả tiền.
+ Ngân hàng xuất trình (Presenting Bank): Nếu Người trả tiền có quan hệ với NH thu hộ thì NH thu hộ sẽ xuất trình Nhờ thu trực tiếp cho Người trả tiền (trong trường hợp này thì NH thu hộ đồng thời là NH xuất trình); Nếu Người trả tiền không có quan hệ tài khoản với NH thu hộ thì có thể chuyển Nhờ thu cho một NH khác có quan hệ tài khoản với Người trả tiền để xuất trình. Trong trường hợp này, NH phục vụ Người trả tiền trở thành NH xuất trình và chịu trách nhiệm trực tiếp với NH thu hộ.
+ Người trả tiền hay người thụ trái (Drawee): Là người mà Nhờ thu được xuất trình để thanh toán hay chấp nhận thanh toán. Người trả tiền trong ngoại thương là nhà nhập khẩu.
Trong thương mại quốc tế, nhờ thu thực chất là quy trình NH thu hộ tiền từ người mua trả cho người bán. Phân loại nhờ thu phụ thuộc vào tính chất chứng từ mà người mua yêu cầu làm căn cứ trả tiền và theo đó nhờ thu bao gồm hai loại là Nhờ thu phiếu trơn và Nhờ thu kèm chứng từ. Cụ thể:* Nhờ thu phiếu trơn: Đây là phương thức thanh toán trong đó chứng từ nhờ thu chỉ bao gồm chứng từ tài chính còn các chứng từ thương mại được gửi trực tiếp cho người nhập khẩu không thông qua NH. Phương thức nhờ thu phiếu trơn không được áp dụng nhiều trong thương mại hàng hoá XNK vì nó không đảm bảo quyền lợi cho người bán do việc nhận hàng của người mua hoàn toàn tách rời với khâu thanh toán, người mua có thể nhận hàng mà không trả tiền hoặc chậm trễ trả tiền. Đối với người mua áp dụng phương thức này cũng có điều bất lợi vì nếu hối phiếu đến sớm hơn chứng từ thì người mua phải trả tiền ngay trong khi không biết việc giao hàng của người bán có thực hiện đúng hợp đồng hay không. Phạm vi áp dụng phương thức này chủ yếu là giữa các khách hàng có mức độ tin tưởng, có thiện chí và tín nhiệm cao trong giao dịch thương mại.
* Nhờ thu kèm chứng từ: Là phương thức thanh toán trong đó chứng từ gửi đi nhờ thu gồm: (i) hoặc chứng từ thương mại cùng chứng từ tài chính; hoặc (ii) chỉ chứng từ thương mại (không có chứng từ tài chính). NH thu hộ chỉ trao chứng từ cho Người trả tiền khi người này đã trả tiền, chấp nhận thanh toán hoặc thực hiện các điều kiện khác quy định trong Lệnh nhờ thu. So với nhờ thu phiếu trơn, nhờ thu kèm chứng từ đảm bảo quyền lợi cho bên bán hơn vì đã có sự ràng buộc chặt chẽ giữa việc thanh toán tiền hàng và nhận hàng của người mua. Vai trò của NH không chỉ là trung gian thanh toán hộ mà còn là người định đoạt việc nhận hàng của bên mua. – Cơ Sở Lý Luận Phát Triển Dịch Vụ Thanh Toán Quốc Tế Của Ngân Hàng Thương Mại
Tuy nhiên, nhờ thu kèm chứng từ thông qua NH mới khống chế được quyền định đoạt hàng hoá của người mua mà chưa khống chế được việc trả tiền của người mua, người mua có thể kéo dài việc trả tiền bằng cách chưa nhận chứng từ hoặc có thể không trả tiền khi thấy tình hình thị trường đang bất lợi với họ.
1.5.3 Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ – Letter of credit (L/C)
Với các phương thức đã nêu trên, nhà XNK đều gặp rủi ro như việc thanh toán không gắn liền với hợp đồng kinh tế, người nhập khẩu không nhận được hàng theo yêu cầu nhưng vẫn phải thanh toán, người xuất khẩu đã giao hàng nhưng không được trả tiền. Phương thức thanh toán bằng tín dụng chứng từ gần như khắc phục được hoàn toàn những nhược điểm của các phương thức trên. Thư tín dụng (L/C) là một cam kết thanh toán của NH cho người xuất khẩu nếu như họ xuất trình được một bộ chứng từ thanh toán phù hợp với các điều khoản và điều kiện của L/C.
– Chủ thể tham gia phương thức tín dụng chứng từ:
+ Người yêu cầu, Người mở, Người xin mở (Applicant): là bên L/C được phát hành theo yêu cầu của họ. Trong thương mại quốc tế, Người mở thường là người nhập khẩu, yêu cầu NH phục vụ mình phát hành một L/C và có trách nhiệm pháp lý về việc NH phát hành trả tiền cho Người thụ hưởng L/C.
+ Người thụ hưởng, Người hưởng, Người hưởng lợi (Beneficiary): là bên hưởng lợi L/C được phát hành, nghĩa là được hưởng số tiền thanh toán hay sở hữu hối phiếu đã chấp nhận thanh toán của L/C.
+ NH phát hành (Issuing bank): là NH thực hiện phát hành L/C theo yêu cầu của Người mở, nghĩa là đã cấp tín dụng cho người mở.
+ NH thông báo (Advising bank): là NH thực hiện thông báo L/C cho Người thụ hưởng theo yêu cầu của NHPH. NHTB thường là NHĐL hay một chi nhánh của NHPH ở nước nhà xuất khẩu.
+ NH xác nhận (Confirming bank): là NH bổ sung sự xác nhận của mình đối với L/C theo yêu cầu hoặc theo sự uỷ quyền của NHPH.
+ NH được chỉ định (Nominated bank): là NH mà tại đó L/C có giá trị thanh toán hoặc chiết khấu, hoặc là bất cứ NH nào nếu L/C có giá trị tự do.
– Quy trình nghiệp vụ theo phương thức tín dụng chứng từ được thể hiện trong sơ đồ hình 1.5 và 1.6.
– Các loại thư tín dụng thương mại:
+ Thư tín dụng có thể hủy ngang (Revocable L/C): là loại thư tín dụng và khi được mở thì người nhập khẩu có thể yêu cầu ngân hàng sửa đổi, bổ sung hay hủy bỏ bất cứ lúc nào mà không cần có sự đồng ý của người hưởng L/C
+ Thư tín dụng không thể hủy ngang (Irrevocable Letter of credit): là loại thư tín dụng sau khi được mở ra và người xuất khẩu thừa nhận thì Ngân hàng mở L/C không được sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ trong thời hạn hiệu lực của nó, trừ khi có sự thỏa thuận khác của các bên tham gia thư tín dụng.
+ Thư tín dụng không thể hủy ngang có xác nhận (Confimed Irrevocable L/C): là loại thư tín dụng không thể hủy bỏ, theo yêu cầu của NHPH, ngân hàng khác xác nhận trả tiền cho L/C này.
+ Thư tín dụng không thể hủy ngang có thể chuyển nhượng (Transferable L/C): là thư tín dụng không thể hủy bỏ, trong đó quy định quyền người hưởng lợi thứ nhất có thể yêu cầu NH mở L/C chuyển nhượng toàn bộ hay một phần quyền thực hiện L/C cho một hay nhiều người khác. L/C chuyển nhượng chỉ được chuyển nhượng một lần. Chi phí chuyển nhượng thường do người hưởng lợi đầu tiên chịu.
THAM KHẢO THÊM TẠI ĐÂY ⇓⇓⇓⇓⇓
==> Tải Free !!! Tải Ngay !!! Chuyên Đề Thực Tập Tại Ngân Hàng Quốc Tế Vib
+ Thư tín dụng không thể hủy bỏ, miễn truy đòi (Irrevocable Without recourse L/C): Là loại L/C sau khi người xuất khẩu đã được trả tiền thì NH mở L/C không còn quyền đòi lại tiền người xuất khẩu trong bất cứ trương hợp nào.
+ Thư tín dụng tuần hoàn (Revolving L/C): Là loại thư tín dụng không thể hủy bỏ sau khi sử dụng xong hoặc đã hết thời hạn hiệu lực thì nó lại tự động có giá trị như cũ và cứ như vậy nó tuần hoàn cho đến khi nào tổng giá trị hợp đồng được thực hiện – Cơ Sở Lý Luận Phát Triển Dịch Vụ Thanh Toán Quốc Tế Của Ngân Hàng Thương Mại
+ Thư tín dụng giáp lưng (Back to back L/C): Sau khi nhận được L/C do người nhập khẩu mở cho mình hưởng, người xuất khẩu dùng L/C này để thế chấp mở một L/C khác cho người hưởng lợi khác với nội dung gần giống như L/C ban đầu, L/C mở sau gọi là L/C giáp lưng.
+ Thư tín dụng đối ứng (Reciprocal L/C): Là loại thư tín dụng chỉ bắt đầu có hiệu lực khi thư tín dụng kia đối ứng đã mở ra. Thư tín dụng đối ứng thường được sử dụng trong phương thức mua hàng đổi hàng, ngoài ra không loại trừ khả năng dùng trong các phương thức gia công tuy nhiên việc sử dụng trong gia công có nhiều phức tạp.
+ Thư tín dụng dự phòng (Stand by L/C): Nhằm đảm bảo quyền lợi nhà nhập khẩu ngân hàng của người xuất khẩu sẽ phát hành một L/C trong đó cam kết với người nhập khẩu sẽ thanh toán lại cho họ trường hợp người xuất khẩu đã nhận được L/C, tiền đặt cọc và tiền ứng trước nhưng không có khả năng giao hàng hoặc không hoàn thành nghĩa vụ giao hàng theo L/C đã đề ra. Như vậy được gọi là L/C dự phòng.
+ Thư tín dụng điều khoản đỏ (Red Claude L/C): Là loại thư tín dụng mà NH phát hành cho phép ngân hàng thông báo ứng trước cho người thụ hưởng để mua hàng hóa, nguyên vật liệu phục vụ sản xuất hàng hóa theo L/C đã mở.
+ Thư tín dụng thanh toán dần dần về sau (Deferred payment L/C): Là loại thư tín dụng không thể hủy bỏ, trong đó NH mở L/C hay NH xác nhận L/C cam kết người hưởng lợi sẽ thanh toán dần toàn bộ số tiền của L/C trong những thời hạn quy định tại L/C đó. Đây là loại L/C trả chậm từng phần.
1.6 Cơ sở pháp lý điều chỉnh dịch vụ thanh toán quốc tế
Hoạt động thanh toán quốc tế chịu sự điều chỉnh của luật pháp và các tập quán quốc tế. Để điều chỉnh quan hệ trong nước, mỗi nước phải xây dựng cho mình một hệ thống pháp luật riêng phù hợp với thể chế chính trị, xã hội, tập quán và trình độ phát triển; chính vì vậy, luật pháp giữa các nước thường là khác nhau. Tuy nhiên, khi tham gia các hoạt động quốc tế, các nước đều bình đẳng với nhau, nên không thể dùng luật pháp của một nước nào đó áp đặt buộc nước khác phải theo. Để giải quyết vấn đề mâu thuẫn luật pháp giữa các nước trong quan hệ quốc tế, người ta đã xây dựng một hệ thống luật pháp thống nhất mang tính quốc tế để điều chỉnh các hoạt động quốc tế, trong đó có hoạt động thanh toán quốc tế.
Theo trình tự pháp lý giảm dần, ta có hệ thống văn bản pháp lý điều chỉnh hoạt động thanh toán quốc tế như sau:
- Các nguồn luật và công ước quốc tế;
- Hiệp định đa phương và song phương;
- Các nguồn luật quốc gia.
- Thông lệ và tập quán quốc tế (văn bản pháp lý tùy ý).
Cụ thể đối với hệ thống pháp luật của Việt Nam, nguồn luật quốc gia điều chỉnh dịch vụ thanh toán quốc tế bao gồm các quy định tại: Bộ luật dân sự năm 2015; Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 sửa đổi bổ sung năm 2017; Pháp lệnh ngoại hối năm 2005 sửa đổi bổ sung năm 2013; Nghị định 88/2019/NĐ-CP; Thông tư 43/2011/TT-NHNN.
2. Phát triển dịch vụ thanh toán quốc tế của ngân hàng thương mại – Cơ Sở Lý Luận Dịch Vụ Thanh Toán Quốc Tế Ngân Hàng Thương Mại
2.1 Quan điểm về phát triển dịch vụ thanh toán quốc tế của ngân hàng thương mại
Phát triển dịch vụ TTQT của NHTM là sự thay đổi, là kết quả của quá trình thay đổi tốt cả về lượng và chất trong hoạt động TTQT. Sự biến đổi về lượng đó là sự gia tăng quy mô TTQT, mở rộng mạng lưới khách hàng, doanh số thanh toán, giá trị từng khoản giao dịch, số lượng khách hàng (KH) sử dụng dịch vụ, phương thức giao dịch trong thanh toán, mở rộng thị phần của ngân hàng trong TTQT. Sự biến đổi về chất được hiểu là trên cơ sở áp dụng những thành tựu của khoa học, công nghệ và quản lý, cải tiến quy trình, nâng cao chất lượng cán bộ… với mục tiêu nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ từ các khâu như tiếp thị, tư vấn khách hàng, tiếp nhận nhu cầu thanh toán, hỗ trợ KH giao dịch, thời gian xử lý, quy trình giao dịch đến các chính sách KH, mức độ cạnh tranh và hiệu quả kinh tế của hoạt động TTQT. Mọi giao dịch TTQT phải được ngân hàng thực hiện nhanh chóng, chính xác, an toàn và hiệu quả.
Quốc hội (2017) định nghĩa: “Phát triển dịch vụ TTQT của ngân hàng có thể hiểu đơn giản là việc gia tăng các loại hình dịch vụ TTQT đồng thời mở rộng thị phần, đối tượng khách hàng kết hợp nâng cao chất lượng các loại hình dịch vụ TTQT của NHTM để đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng”.
Trên cơ sở đa dạng hóa các loại hình dịch vụ TTQT các NHTM sẽ có cơ hội mở rộng thị phần, mở rộng đối tượng sử dụng dịch vụ, hướng người sử dụng tiếp cận với những phương thức thanh toán mới. Do vậy, có thể nói: Phát triển dịch vụ TTQT của NHTM là sự thay đổi theo hướng tốt về chất và lượng trong hoạt động TTQT của NHTM. Trong đó phát triển về lượng là sự mở rộng mạng lưới khách hàng, doanh số giao dịch, giá trị từng khoản giao dịch, số lượng phương thức giao dịch; phát triển về chất là mọi giao dịch TTQT phải được thực hiện nhanh chóng, chính xác, an toàn, hiệu quả.
2.2 Sự cần thiết phát triển dịch vụ thanh toán quốc tế đối với ngân hàng thương mại
Hoạt động NHTM thường đảm nhận ba nghiệp vụ chính là Huy động vốn, Cho vay và các dịch vụ trung gian trong đó TTQT là nghiệp vụ thuộc mảng dịch vụ trung gian. NHTM với tư cách là trung gian, thay mặt cho khách hàng thực hiện các giao dịch thu chi hộ, các khoản tiền phát sinh từ hoạt động XNK hàng hóa, dịch vụ và NH trở thành cầu nối trung gian thanh toán giữa các bên mua, bán. Xu hướng quốc tế hóa nền kinh tế đã tạo điều kiện cho các dịch vụ ngân hàng phát triển đặc biệt là dịch vụ TTQT.
Trong hoạt động thương mại quốc tế không phải lúc nào các nhà XNK cũng có thể thanh toán tiền hàng trực tiếp cho nhau mà thường phải thông qua NHTM cùng với các mạng lưới chi nhánh và hệ thống NHĐL rộng khắp toàn cầu. Với vai trò là trung gian thanh toán, NHTM sẽ thực hiện thanh toán theo yêu cầu của khách hàng, bảo vệ quyền lợi cũng như tư vấn, hướng dẫn cho KH những biện pháp kỹ thuật nghiệp vụ TTQT nhằm hạn chế rủi ro, tạo sự tin tưởng cho KH trong quan hệ giao dịch mua bán với nước ngoài.
Nhìn chung, NHTM là đơn vị cung cấp các loại hình dịch vụ tài chính nhằm hỗ trợ cho KH thực hiện hoạt động thương mại quốc tế. NHTM cung cấp các phương tiện, lựa chọn phương thức TTQT, tài trợ XNK đảm bảo an toàn và quyền lợi cho cả hai bên mua bán, thông qua đó còn thúc đẩy ngoại thương phát triển và mở rộng quan hệ với các quốc gia trên thế giới.
Dịch vụ TTQT là dịch vụ sinh lời của NH và trở nên quan trọng đối với các NHTM bởi đem lại nguồn thu đáng kể. TTQT là một mắt xích quan trọng trong việc chắp nối và thúc đẩy phát triển các hoạt động KD khác của NH như KD ngoại tệ, tài trợ XNK, bảo lãnh, tăng trưởng nguồn vốn huy động đặc biệt là nguồn vốn ngoại tệ. Phát triển dịch vụ TTQT có vai trò vô cùng quan trọng đối với các NHTM, vì không chỉ là một dịch vụ thanh toán thuần túy mà còn là khâu trung tâm không thể thiếu trong dây chuyền hoạt động KD, bổ sung hỗ trợ cho các hoạt động KD khác của NH. Thông qua cung cấp dịch vụ TTQT cho KH, NH thu phí để bù đắp các chi phí và tạo ra lợi nhuận KD.
Hoạt động thanh toán quốc tế làm tăng tính thanh khoản cho ngân hàng. Khi thực hiện các nghiệp vụ thanh toán quốc tế, ngân hàng có thể thu hút được nguồn vốn ngoại tệ tạm thời nhàn rỗi của các doanh nghiệp có quan hệ thanh toán quốc tế với ngân hàng dưới hình thức các khoản ký quỹ chờ thanh toán. – Cơ Sở Lý Luận Phát Triển Dịch Vụ Thanh Toán Quốc Tế Của Ngân Hàng Thương Mại
Thanh toán quốc tế còn tạo điều kiện hiện đại hoá công nghệ ngân hàng. Các ngân hàng sẽ áp dụng các công nghệ tiên tiến để hoạt động thanh toán quốc tế được thực hiện nhanh chóng, kịp thời và chính xác, nhằm phân tán rủi ro, góp phần mở rộng qui mô và mạng lưới ngân hàng.
Hoạt động thanh toán quốc tế giúp ngân hàng mở rộng quan hệ với các ngân hàng nước ngoài, nâng cao uy tín của mình trên trường quốc tế, trên cơ sở đó khai thác được nguồn tài trợ của các ngân hàng nước ngoài và nguồn vốn trên thị trường tài chính quốc tế để đáp ứng nhu cầu về vốn của ngân hàng.
Như vậy, phát triển hoạt động thanh toán quốc tế có vai trò và ý nghĩa thực tiễn vô cùng quan trọng đối với các ngân hàng thương mại. Phát triển dịch vụ TTQT sẽ góp phần phát huy chất xúc tác, cầu nối, điều kiện để đảm bảo an toàn và hiệu quả cho các bên tham gia XNK, đồng thời tài trợ cho các DN trong hoạt động sản xuất kinh doanh XNK.
2.3 Chỉ tiêu đánh giá sự phát triển dịch vụ thanh toán quốc tế của ngân hàng thương mại
- Các chỉ tiêu định tính
Nâng cao uy tín của ngân hàng: Uy tín thương hiệu chính là nhận thức của khách hàng về NH. Khi khách hàng nhớ đến hình ảnh thương hiệu của một NH và sẵn sàng giao dịch tại NH đó hoặc giới thiệu người thân, bạn bè đến giao dịch nghĩa là NH đó đã chiếm được cảm tình và lòng tin của khách hàng. Đối với một NHTM, thương hiệu, uy tín được thể hiện ở các xếp hạng do các tổ chức quốc tế uy tín đánh giá hoặc các giải thưởng mà NH đó nhận được. Đối với phạm vi Chi nhánh, thương hiệu của một NH được thể hiện ở thị phần giao dịch mà Chi nhánh đó có, ở mức độ khách hàng và lượng khách hàng đến giao dịch. Các khách hàng mới, khách hàng tiềm năng khi họ bắt đầu muốn tìm kiếm ngân hàng phục vụ sẽ tìm đến với NH uy tín trước, sau đó họ mới cân nhắc đến các yếu tố về chính sách giá. Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt như hiện nay trên thị trường tài chính NH.
Sự hài lòng của khách hàng: Dịch vụ TTQT được coi là phát triển khi nó đáp ứng được nhu cầu đa dạng của KH một cách tốt nhất. Để có được sự hài lòng từ phía KH thì phu thuộc vào thái độ giao tiếp, trình độ nghiệp vụ, sự am hiểu nhạy bén về thị trường quốc tế và thời gian xử lý và khả năng đáp ứng nhu cầu của NH. Để thỏa mãn sự hài lòng của KH, NH cần có sự cải tiến, phát triển dịch vụ phù hợp với nhu cầu và đáp ứng được nhiều tiện ích của KH từ đó sẽ nâng cao năng lực cạnh tranh và nâng cao vị thế của chính NH trên thị trường trong và ngoài nước.
Tính an toàn và chính xác: Dịch vụ TTQT thực hiện từ khâu tiếp nhận và xử lý thông tin rồi đến bước phản hồi thông tin bởi mảng kinh doanh XNK vốn tiềm ẩn nhiều rủi ro mang tính quốc tế. Để đáp ứng yêu cầu của KH và theo kịp tốc độ phát triển của ngoại thương, các NH phải thường xuyên hoàn thiện, cải thiện, đổi mới công nghệ thông tin, việc tổ chức tốt trang thiết bị kỹ thuật đến bố trí nhân sự giúp cho việc thực hiện nghiệp vụ diễn ra an toàn, hiệu quả. Việc quản lý và kiểm soát được rủi ro trong hoạt động TTQT sẽ góp phần rất lớn trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động TTQT của NHTM. – Cơ Sở Lý Luận Phát Triển Dịch Vụ Thanh Toán Quốc Tế Của Ngân Hàng Thương Mại
Hỗ trợ sự phát triển các nghiệp vụ khác của NH: Sự phát triển của dịch vụ TTQT được đánh giá thông qua việc tăng cường hỗ trợ các dịch vụ NH khác như mua bán ngoại tệ, tài trợ thương mại, huy động vốn… Dịch vụ TTQT phát triển giúp NH tăng quy mô huy động vốn, đặc biệt là huy động nguồn vốn ngoại tệ. Do vậy, muốn sử dụng dịch vụ TTQT thì khách hàng cần phải mở tài khoản và duy trì số dư tiền gửi nhất định trên tài khoản thanh toán hoặc tài khoản tiết kiệm để thực hiện các giao dịch thanh toán khi cần thiết, từ đó giúp NH gia tăng nguồn vốn, đặc biệt là nguồn vốn không kỳ hạn- nguồn vốn giá rẻ đem lại lợi nhuận cao cho NH.
Sự phát triển của dịch vụ TTQT giúp NH tăng cường hỗ trợ nghiệp vụ tín dụng, đặc biệt là tín dụng tài trợ XNK. Khi nhà nhập khẩu chưa đủ khả năng tài chính để thanh tóan tiền nhập lô hàng, NH có thể xem xét đánh giá và tài trợ vốn cho KH. Hoặc khi nhà xuất khẩu cần tiền để phục vụ hoạt động sản xuất nhưng dòng tiền từ việc XNK chưa về kịp, NH sẽ đánh giá xem xét để tài trợ vốn thông qua các hợp đồng hạn mức hoặc chiết khấu bộ chứng từ. Sự phát triển của dịch vụ TTQT còn giúp NH gia tăng doanh số mua bán ngoại tệ và tăng lợi nhuận từ hoạt động này. Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ TTQT tại NH, KH sẽ phát sinh thêm nhu cầu về mua bán ngoại tệ và nghiệp vụ này đều phải thực hiện qua NH. Khi đó, NHTM sẽ là trung gian giữa nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu để thu lợi nhuận từ việc hưởng chênh lệch giá mua bán.
THAM KHẢO THÊM ⇓⇓⇓⇓⇓
==> Chuyên Đề Thực Tập Tại Techcombank Ngân Hàng Kỹ Thương HAY NHẤT!!!
===> Chuyên Đề Thực Tập Ngân Hàng VCB [ĐỀ TÀI + BÀI MẪU] FREE
- Các chỉ tiêu định lượng
– Doanh số TTQT: Là tổng toàn bộ giá trị của các món TTQT mà ngân hàng đã thực hiện trong một khoảng thời gian. Thông thường, các NH sẽ thu phí của khách hàng dựa trên tỷ lệ % giá trị giao dịch. Do đó, doanh số TTQT càng lớn thì phí ngân hàng thu được càng nhiều.
– Tỷ lệ doanh thu TTQT trên tổng doanh thu: Tỷ lệ này cho biết doanh thu từ hoạt động dịch vụ TTQT chiếm tỷ trọng như thế nào trong tổng doanh thu của ngân hàng, cho biết NH có chú trọng phát triển dịch vụ TTQT hay không.
– Lợi nhuận ròng từ dịch vụ TTQT: Chỉ tiêu lợi nhuận được tính bằng hiệu số giữa doanh thu từ dịch vụ TTQT mang lại và chi phí bỏ ra để hoạt động dịch vụ TTQT. Đây là một mục tiêu cơ bản mà tất cả các NHTM luôn hướng tới.
Lợi nhuận TTQT = Doanh thu TTQT – Chi phí TTQT
Các NHTM sẽ tìm cách tiết giảm chi phí hoạt động, tăng năng suất lao động trên cơ sở áp dụng công nghệ hiện đại và nâng cao trình độ của cán bộ nhân viên làm công tác TTQT. Chỉ tiêu này tăng giảm nói lên sự phát triển dịch vụ TTQT của một NH và cũng dựa vào đây các NHTM sẽ xem xét để tìm các biện pháp để cải tiến dịch vụ TTQT nhằm tăng lợi nhuận thu được từ dịch vụ này, đóng góp chung vào tổng lợi nhuận kinh doanh của NH.
– Tỷ lệ lợi nhuận TTQT/Doanh số TTQT: Tỷ lệ này cho thấy một đồng doanh thu từ hoạt động TTQT mang lợi được bao nhiêu đồng lợi nhuận cho NH. Chỉ tiêu này càng cao, chứng tỏ hoạt động dịch vụ TTQT tại ngân hàng càng tốt và ngược lại.
– Tỷ lệ doanh thu TTQT/Số cán bộ TTQT: Thể hiện năng suất lao động của một cán bộ TTQT.
– Số lượng khách hàng: Bất cứ hoạt động nghiệp vụ nào của NH muốn có doanh thu, lợi nhuận cao đều cần có lượng khách hàng lớn bởi số lượng khách hàng sử dụng dịch vụ TTQT cũng là một trong những chỉ tiêu đánh giá sự phát triển của dịch vụ. Số lượng KH tăng lên đồng nghĩa với việc NH thu được nhiều khoản phí, lãi… và tăng uy tín của NH trên thị trường.
– Thời gian thực hiện giao dịch: Trong dịch vụ TTQT việc thực hiện chính xác và nhanh chóng kịp thời không những giúp cho NH có thể đẩy mạnh hoạt động dịch vụ mà còn giúp cho KH đảm bảo được tiến độ thực hiện của các hợp đồng KD. Do vậy, NHTM nào cũng phải có biện pháp đẩy nhanh thời gian thanh toán để cho các Khách hàng yên tâm, tin tưởng vào dịch vụ mà NHTM đó cung cấp bằng cách đưa ra các quy trình, thủ tục, phương thức thanh toán tối ưu nhất và an toàn nhất.
– Số vụ khiếu nại so với tổng số món thanh toán: Tiêu chí này góp phần phản ánh uy tín, năng lực phục vụ và đảm bảo an toàn các giao dịch của ngân hàng trong hoạt động dịch vụ TTQT. Tỷ lệ này thấp nghĩa là NH ít xảy ra khiếu nại từ phía khách hàng đối với các giao dịch được thực hiện thông qua dịch vụ TTQT và ngược lại.
TẢI FREE BÀI MẪU TRÊN TẠI ĐÂY ⇓⇓⇓⇓⇓
Bài Mẫu Cơ Sở Lý Luận Phát Triển Dịch Vụ Thanh Toán Quốc Tế Của Ngân Hàng Thương Mại – ĐẦY ĐỦ CHI TIẾT HAY!!!
Cảm ơn bạn đã đọc hết bài viết Cơ Sở Lý Luận Phát Triển Dịch Vụ Thanh Toán Quốc Tế Của Ngân Hàng Thương Mại, mong rằng tài liệu sẽ giúp bạn một phần nào đó trong bài tốt nghiệp của mình. Bên mình đang Nhận làm chuyên đề tốt nghiệp giá rẻ, bạn không có thời gian làm bài hãy liên hệ ngay Zalo/tele: 0909 23 26 20 sẽ có nhân viên hỗ trợ và báo giá chi tiết cho bạn, với đội ngũ nhân viên hơn 10 năm kinh nghiệm trong nghề viết tất cả các chuyên ngành hot hiện nay, cập nhật xu hướng viết của nhà trường, bao chỉnh sửa trong quá trình viết, bảo mật 100%. Chúc Bạn Thành Công!